Dịch vụ dọn dẹp sổ sách kế toán, quyết toán thuế

Với 500 doanh nghiệp đã được chúng tôi quyết toán, chúng tôi tự tin với khả năng có thể làm tất cả các loại hình doanh nghiệp

Dịch vụ kế toán trọn gói giá rẻ

Với 5 năm kinh nghiệm chúng tôi tự tin là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán tốt nhất thị trường...

Dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm giá rẻ

Cung cấp dịch vụ làm báo cáo tài chính giá rẻ - nhanh chóng - tốt nhất thị trường...

Nâng cao năng lực đấu tranh cho ngành logistics Việt Nam

Nhàng nhàng mỗi năm, ngành logistics đóng góp khoảng 20% GDP cho kinh tế sơn hà. Nguồn: internet

Đã có những đóng góp ban sơ, nhưng chưa tương thích với tiềm năng

Logistics có đóng góp quan trọng vào quá trình phân phối hàng hóa từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng và là cầu nối thương mại toàn cầu. Hoạt động logistics hiện tại không chỉ gắn liền với hoạt động kho vận, giao nhận chuyển vận, mà còn lên kế hoạch, xếp đặt dòng chảy nguyên, vật liệu từ nhà cung ứng đến nhà sinh sản, sau đó luân chuyển hàng hóa từ khâu sinh sản đến người tiêu dùng rút cuộc, tạo nên sự liên thông trong toàn từng lớp theo những phương án tối ưu hóa, giảm hoài luân chuyển và lưu kho.

Tại "Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất” năm 2013 do Bộ Công Thương kết hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức vào ngày 15/11/2013, ông Đỗ Xuân Quang, chủ toạ Hiệp hội Các doanh nghiệp (DN) dịch vụ logistics Việt Nam cho biết, hiện thời trên cả nước có hơn 1.200 DN logistics, tăng 20% so với năm 2010, tương đương với các nước Thái Lan, Singapore và Indonesia. Trong số các công ty nội địa có khoảng 800 công ty đang hoạt động trong lĩnh vực giao nhận tải và 70% là DN tư nhân.

Ngoại giả, các DN logistics nội địa đã tiến hành đầu tư chiều sâu, khai triển các dịch vụ logistics trọn gói 3PL (intergrated logistics), tham gia hồ hết vào các công đoạn logistics trong chuỗi cung ứng của chủ hàng. Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành dịch vụ và xác lập được uy tín của các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước.

Năm 2012, theo đánh giá của ngân hàng Thế giới (WB), Chỉ số năng lực logistics quốc gia (LPI) của Việt Nam đứng thứ 53 trên 155 nước khảo sát và đứng thứ 5 khu vực ASEAN. Đây thực sự là thành tích đáng tự hào của ngành dịch vụ này của Việt Nam. Sở dĩ có được những kết quả như trên là bởi, ngành logistics của nước ta có nhiều tiềm năng và thế mạnh.

Theo ông Lê Xuân Sang, Phó Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, ngành logistics Việt Nam có rất nhiều lợi thế về địa lý và điều kiện thiên nhiên. Với 3.260 km đường bờ biển, 4.639 km đường biên giới nằm trong vùng chiến lược của Đông Nam Á sẽ là những lợi thế thiên nhiên dành cho cho các DN logistics Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, 6 trọng tâm logistics tại 3 miền của giang sơn, như: Cái Lân - VOSA (Quảng Ninh), Đình Vũ (Hải Phòng), Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh), Cái Mép - Thị Vải (Vũng Tàu), trọng tâm Tiếp vận Gemadept Sóng Thần, trọng điểm Kho vận đa năng DAMCO (Bình Dương).

Bên cạnh đó, logistics của Việt Nam đang trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển, chính vì thế, đây cũng là điều kiện tiện lợi để các DN logistics Việt Nam thực hành ngay từ đầu việc áp dụng các công nghệ mới, các quy trình tiền tiến trên thế giới.

Còn theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất - nhập khẩu, Bộ Công Thương, sự tăng  trưởng của ngành xuất - nhập khẩu cũng tạo ra những tiềm năng to lớn cho ngành logistics phát triển.Làm báo cáo tài chính

Năm 2013, có tới 90% hàng xuất - nhập khẩu của Việt Nam được vận tải bằng đường biển với khoảng 500-600 triệu tấn/năm và dự kiến sẽ đạt 1.100 triệu tấn vào năm 2020. Bên cạnh đó, lượng hàng container qua cảng biển Việt Nam đạt từ 4,2 - 5 triệu TEU (khoảng 39 m³ thể tích), dự kiến đến năm 2020 con số này lên đến 7,7 triệu TEU.

Hơn nữa, việc Việt Nam tham dự vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương cũng đã tạo ra nhiều tiềm năng to lớn và tăng vị thế của ngành logistics trong khu vực và trên thế giới.

Một số hạn chế và nguyên cớ

Bên cạnh những kết quả như trên, ngành logistics của nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Cụ thể như:

Một là,nhiều cơ quan chức năng, các nhà quản lý, cũng như các DN chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan yếu của ngành. Nhìn chung, khi nói đến đối tượng dùng dịch vụ logistics (các công ty thương mại, các DN xuất - nhập khẩu, các DN chế biến sinh sản), các cơ quan quản lý cũng như các DN chưa đánh giá hết được tầm quan trọng của việc quản trị logisticss và chuỗi cung ứng, đặc biệt là các công đoạn còn lại từ cảng trong nước đến tay người tiêu dùng chung cục.

Kết quả là logistics thường được đồng nhất với việc vận chuyển đơn giản và việc thuê ngoài logistics vẫn chưa trở nên nếp, chưa kể đến việc áp dụng logistics trong quản trị sinh sản, chế biến… đã làm hoài, giá thành sản phẩm hàng hóa cao, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Hai là,khung khổ pháp luật điều chỉnh các hoạt động logistics hiện giờ đã không còn hạp, thiếu cập nhật các định chế cấp thiết trong lĩnh vực logistics quốc tế. Nên chi, thị trường dịch vụ logistics vẫn còn thiếu tính minh bạch, cạnh tranh chưa lành mạnh, chưa tạo điều kiện phát triển vững bền cho ngành.

Nguyên nhân của thực trạng trên một phần đông là do còn thiếu dắt mối quản lý thống nhất ngành dịch vụ logisticss và chậm thiết chế hóa, cập nhập hóa các thiết chế chính sách thích hợp xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói riêng, cũng như nền kinh tế thế giới nói chung.

Ba là,cơ sở vật chất hạ tầng còn chậm phát triển cũng là một hạn chế lớn đối với sự phát triển của logistics. Hiện thời, cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ ngành dịch vụ logistics của Việt Nam bao gồm: 26 sân bay, trong đó 8 trường bay có đường băng dài 3.000m có khả năng đón nhận các phi cơ lớn, 3.200km đường sắt nhà nước, khoảng 17.300km quốc lộ, 49 bến cảng với 217 cầu cảng. Tuy nhiên, hệ thống trên vẫn chưa thể đáp ứng và theo kịp sự phát triển của ngành logistics trong giai đoạn hiện. Nhưng vấn đề không phải nằm ở số lượng, mà là tính đồng bộ trong quy hoạch, phối – phối hợp giữa kết cấu hạ tầng chuyển vận với chân hàng, đồng bộ trong các khâu của bản thân ngành logistics.

Bốn là,hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế, cả về: quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân công… Cũng tại Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất năm 2013, theo ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ công thương nghiệp, phần nhiều quy mô các DN logistics là nhỏ và vừa, vốn điều lệ bình quân bây giờ chỉ khoảng 4-6 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực hiện tại chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của ngành, nguồn nhân công được đào tạo bài bản chuyên ngành logistics chỉ chiếm 5%-7%. Hơn nữa, lực lượng lao động logistics được đào tạo đẵn duyệt y các lớp ngắn hạn, hoặc ở trình độ trung cấp. Số cần lao được đào tạo chủ yếu nằm trong các lĩnh vực dịch vụ, như: ngân hàng, du lịch, thông báo giao thông, còn dịch vụ cảng biển, logistic, lại hết sức khiêm tốn, đội ngũ các nhà quản lý hầu như chơi có.

Năm là,thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN logistics. Giờ, nhiều DN xuất - nhập khẩu Việt Nam vẫn còn tập quán “mua CIF, bán FOB” (tức là, với giá dựa trên việc giao hàng theo giá thành, bảo hiểm, cước tải, thì bổn phận sẽ chuyển từ người bán sang người mua khi hàng nhập khẩu đến. Còn với giá dựa trên việc giao hàng theo dụng cụ tải, bổn phận này chuyển ngay tại cảng nước ngoài). Bởi vậy, nhiều DN xuất khẩu, thậm chí, phó thác cho đối tác nước ngoài quyền chủ động thuê chuyên chở (logistics). Hơn nữa, rất nhiều DN xuất - nhập cảng của Việt Nam bản chất chỉ làm hàng gia công cho nước ngoài. Do vậy, quyền nhập vật liệu và xuất thành phẩm thuộc về đơn vị đặt hàng gia công, tức bên nước ngoài.

Công ty dịch vụ kế toán

Để ngành logistics “cất cánh”

Để phát triển và năng cao năng lực cạnh tranh cho ngành logistics ở nước ta hiện giờ, cần phải có sự chuyển biến đồng bộ và sự rứa từ nhiều phía, bởi thế, theo chúng tôi, cần thực hành các giải pháp sau:

Thứ nhất,cần có chiến lược phát triển cũng như các chính sách hỗ trợ cho ngành logistics, như: Cần có chiến lược phát triển đội tàu, nâng dần năng lực và thị phần các DN vận chuyển biển Việt Nam; Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam có đủ năng lực, chuyên nghiệp và mạng lưới đáp ứng nhu cầu của các chủ hàng Việt Nam; Phát triển năng lực các DN bảo hiểm Việt Nam; Các chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ cho nhà xuất - nhập khẩu.

Thứ hai,hoàn thiện khung pháp lý logistics minh bạch, hợp xu thế phát triển logistics hiện thời, tạo tiện lợi thương mại và xúc tiến phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam. Bên cạnh đó, cần cách tân thủ tục thương chính, thực hành một cửa quốc gia, điện tử hóa khai quan, vận dụng thương mại điện tử, cách tân thủ tục hành chính… nhằm tạo điều kiện cho DN xuất - nhập cảng và DN dịch vụ logistics cắt giảm tổn phí, nâng cao lợi thế cạnh tranh.

Bên cạnh đó, cần thành lập Ủy ban nhà nước về Logistics là cơ quan chịu trách nhiệm, là mai dong thực thi các chương trình, đích chung của ngành, tham dự tư vấn quy hoạch và chiến lược tổng thể phát triển logistics của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.

Thứ ba,đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng đồng bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng lớn của ngành logistics. Theo đó, cần sớm hoàn thiện cảng, cảng thông quan nội địa, đường bộ, kho bãi, trang thiết bị và các định chế có liên can.

Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ hình thức đối tác công - tư (PPP) trong phát triển kết cấu hạ tầng. Do đó, Chính phủ và tư nhân cần có sự tăng cường hợp tác để đầu tư phát triển hạ tầng logistics bằng việc san sớt nhưng khó khăn vào kết nối những thế mạnh của mỗi bên.

Thứ tư,Hiệp hội các DN dịch vụ logistics Việt Nam với vai trò mấu chốt cần kết nối các DN trong ngành, tạo ra các DN đầu đàn, hợp tác chia sẻ các lợi thế nhằm giảm uổng logistics, tạo ra sân chơi lành mạnh và mang tính cạnh tranh cao trong ngành logistics… nhằm gắn kết DN xuất - du nhập và DN dịch vụ logistics.

Dịch vụ quyết toán thuế cuối năm

Thứ năm,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho ngành logistics. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam năm 2012, trong giai đoạn 2013-2015, Trung bình các DN dịch vụ logistics cần thêm 18.000 cần lao, các DN sinh sản, thương nghiệp, dịch vụ cần trên một triệu nhân sự có chuyên môn về logistics (Đỗ Loan, 2014). Thành ra, để có thể đáp ứng nhu cầu nguồn nhân công nói trên, cần có sự kết hợp chém giữa các cơ quan quản lý quốc gia chuyên ngành, các trường đào tạo, các DN logistics, các trọng tâm xúc tiến đầu tư, Hiệp hội các DN dịch vụ logistics… trong việc nâng cao tri thức về khai hoang dịch vụ logistic, như: tổ chức các cuộc hội thảo, bản tin chuyên đề, phổ quát luật pháp, cập nhật những kiến thức vận hành, khai hoang và quản lý loại hình dịch vụ này.

Các trường đại học cần xây dựng chương trình đào tạo về dịch vụ logistics, đưa vào nội dung đào tạo một số ngành Giao thông tải hoặc mở đào tạo chuyên ngành dịch vụ logistics với nhiều loại hình đào tạo, nhiều cấp độ đào tạo, căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của từng giai đoạn.

Thứ sáu,các DN dịch vụ logistics Việt Nam cần chủ động làm việc với DN xuất - du nhập Việt Nam, tham vấn và thuyết phục các DN này đổi thay phương thức “mua CIF, bán FOB”. Bên cạnh đó, các DN dịch vụ logistics cũng cần nâng cao năng lực xây dựng mạng lưới ở nước ngoài và tính chuyên nghiệp để phục vụ khách hàng có chất lượng và uy tín. Bản thân các DN logistics phải quảng bá hoạt động của mình và cùng DN xuất - du nhập cam kết đồng hành trong việc dùng và cung cấp dịch vụ logistics.

Thứ bảy,các DN xuất - nhập cảng cũng cần nhận thức các ích trong việc thay đổi tập quán mua, bán truyền thống, để ý thương lượng để giành quyền tải và logistics cũng như bảo hiểm để vừa hà tằn hà tiện và chủ động trong phí, vừa tạo ra thế cạnh tranh giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng của mình./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ công thương nghiệp, Bộ Giao thông chuyển vận (2013). Kỷ yếu Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất năm 2013, ngày 15/11/2013, TP. Hồ Chí Minh

2. Đỗ Loan (2014). Logisticss Việt Nam khan hiếm nguồn nhân lực, truy cập từ

Http://giaothongvantai.Com.Vn/thi-truong/lao-dong-viec-lam/201403/logisticss-viet-nam-khan-hiem-nguon-nhan-luc-463416/

Theo kinhtevadubao.Com.Vn

Hợp tác Việt Nam – Hà Lan: Chọn đầu tư phát triển khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Trong những thập kỉ qua, ĐBSCL khá phát triển, trở thành vựa lúa gạo của giang san và đưa Việt Nam thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Cùng những chính sách đa dạng hóa nông nghiệp, chuyển từ sinh sản độc canh lúa gạo sang hệ thống canh tác đa dạng hơn, bao gồm cả nuôi trồng thủy sản, trái cây và hoa màu, ĐBSCL có một nền kinh tế đa ngành cân bằng với sự gia tăng tỉnh thành hóa và công nghiệp hóa. Tuy nhiên, dù có cố kỉnh nhưng phát triển nông nghiệp ở ĐBSCL vẫn tụt hậu và chưa theo kịp các chính sách của Chính phủ, do đặc thù địa lí và bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu…

Công ty kế toán tại hà nội

Trong phạm vi Thỏa thuận Đối tác chiến lược Việt Nam – Hà Lan về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản ngại nước, các chuyên gia đã khai triển nghiên cứu Kế hoạch ĐBSCL. Đây là một trong những cơ sở khoa học quan trọng để các bộ, ngành và địa phương trong vùng điều chỉnh các kế hoạch phát triển ngắn hạn, các quy hoạch trong trung và dài hạn. Danh mục, chương trình dự án ưu tiên đầu tư cho ĐBSCL cũng được xác định nhằm kêu gọi sự hỗ trợ của các đối tác phát triển, trong đó phân định  rõ các nhóm dự án liên tưởng đến đê kè chống sạt lở bờ biển, bờ sông, chống ngập cho các thành phố lớn cũng như tăng cường năng lực quản ngại rủi ro thiên tai và khai khẩn hiệu quả tài nguyên nước.

Nhận làm báo cáo thực tập kế toán

Chia sẻ về dự án này, đại diện Chính phủ Hà Lan cho rằng, Hà Lan và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều điểm tương đồng như đều là khu vực đồng bằng thấp, mật độ dân số cao và diện tích tương đương. Cả hai bên đều phải đối mặt với thách thức nước biển dâng, thay đổi dòng chảy và nhiễm mặn. Đó là lí do tại sao 4 năm trước, Việt Nam và Hà Lan quyết định hợp tác chặt tại khu vực này. Vào cuối năm 2013, một tầm nhìn dài hạn được đặt ra với tên gọi Kế hoạch ĐBSCL, các kịch bản phát triển kinh tế – từng lớp được cụ thể hóa. Theo đó, trong mai sau, việc ứng dụng các giải pháp và năng lực thích nghi với biến đổi khí hậu, gồm mức độ phát triển kinh tế và hạ tầng cơ sở có thể được phối hợp và tối ưu hóa theo không gian hoặc sẽ được phát triển theo không gian dựa trên các phản ứng kinh tế cục bộ…

Nhận làm kê khai thuế

Về phía Việt Nam, Chính phủ đưa ra các chủ trương đối phó với biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế – từng lớp của khu vực ĐBSCL. Trong đó, ưu tiên đầu tư vào một số lĩnh vực có lợi thế so sánh; phát triển các mô hình chuỗi kết liên giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu; hình thành mạng lưới tín dụng đa dạng, linh hoạt… Đồng thời, phát triển đồng bộ hệ thống các thành thị, khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng tầng lớp theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái gắn với đồng ruộng, miệt vườn, sông nước và biển đảo. Mặt khác, có các giải pháp chủ động phòng tránh và ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; phối hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – từng lớp với đảm bảo quốc phòng an ninh, an ninh nguồn nước và an ninh lương thực…

Khánh Linh

Kết hợp ngân hàng – doanh nghiệp: Đòn bẩy địa phương

Cách đây 2 năm, Ctrinhf kết nối ngân hàng – doanh nghiệp (NH-DN) lần đầu tiên được thực hiện ở TP. Hồ Chí Minh và hiện đang được nhân rộng ra các thành phố lớn. Trong hội nghị sơ kết, TP. Hồ Chí Minh đánh giá chương trình này đã tạo ra nguồn vốn giá rẻ cho DN, góp phần duy trì sản xuất kinh doanh trong giai đoạn kinh tế khó khăn nhất. Trong đó, lãnh đạo chính quyền các cấp đóng vai trò như “trọng tài” trong mối quan hệ ba bên: Chính quyền, NH và DN.

Đây là phần hỗ trợ bước đầu với mức hỗ trợ theo các chính sách được áp dụng cho đến ngày hôm nay. Theo UBND tỉnh Bình Dương, việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp sẽ còn tiếp tục thực hiện bằng nhiều hình thức và sẽ còn các đợt hỗ trợ tiếp theo trong thời gian tới.

Trong đợt này, nhiều lĩnh vực được UBND tỉnh hỗ trợ doanh nghiệp như lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực thuế, lĩnh vực hải quan, lĩnh vực tài nguyên - môi trường, lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực bảo hiểm xã hội…

Thực tế lâu nay, khi DN cần vốn phải tìm đến NH. Nhưng từ khi có chương trình này thì Hiệp hội DN và chính quyền nơi những tổ chức kinh doanh hoạt động trên địa bàn chủ động tìm hiểu để chọn lựa ra những khách hàng là DN cần nguồn vốn tín dụng và đề xuất với ngân hàng. Theo đó, TCTD cùng chính quyền sở tại tham gia vào quá trình thẩm định nhu cầu vốn và đánh giá “sức khỏe” của DN.

Như ở TP. Hồ Chí Minh, quá trình này diễn ra trong khoảng 20-25 ngày thì  dịch vụ dọn dẹp sổ sách  hai bên chính quyền và NH thống nhất được danh sách những DN nhất định để tổ chức buổi ký kết hợp đồng vay vốn. Hiệu ứng lan tỏa từ chương trình này giúp cho NH mở rộng tín dụng về chất và rút ngắn thời gian thẩm định vay vốn cho DN, đồng thời tạo môi trường cho các mô hình liên kết khác: ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực…


  Sacombank được đánh giá là đơn vị chủ lực trong chương trình kết nối NH – DN từ giai đoạn đầu ở TP. Hồ Chí Minh  

  DN xấu nhưng có nợ tốt  

Ông Trần Ngọc Hải, quyền Trưởng văn phòng đại diện Agribank tại TP.Hồ Chí Minh khẳng định, các giám đốc chi nhánh Agribank thường xuyên đi cơ sở, chủ động gặp gỡ các DN, nắm bắt nguyên nhân để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và xử lý các vấn đề liên quan đến điều kiện, thủ tục vay vốn…

Ông Hải kể, vừa qua đơn vị này đã giải quyết trường hợp cho vay tín dụng chuyển từ ngắn hạn sang vốn trung, dài hạn cho một DN sản xuất thủy sản ở huyện Bình Chánh với số dư nợ 50 tỷ đồng. Đây là trường hợp khá đặc biệt vì DN này làm ăn thua lỗ 3 năm liên tiếp, nhưng lại có nhu cầu vốn xây dựng nhà máy và muốn tăng hạn mức vốn vay lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. &Ldquo;Trong khả năng giải quyết của một chi nhánh Agribank có hạn, chúng tôi phải xin ý kiến Hội sở chính, đồng thời cân nhắc và xem xét  Dịch vụ kế toán tại hà nội  thấy rằng khả năng nguồn đầu tư mới sẽ giúp DN vực dậy, sau đó mới chấp thuận giải ngân vốn cho trường hợp này”, ông Hải nói thêm.

Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng, tỉnh sẽ miễn giấy phép xây dựng đối với các trường hợp xây dựng lại, sửa chữa, cải tạo công trình bị thiệt hại. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần gửi thông báo bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền biết để quản lý.

Các trường hợp còn lại, tỉnh cho phép các doanh nghiệp được tổ chức thiết kế, xây dựng trước khi xin giấy phép xây dựng nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu theo quy định.

Theo kinh nghiệm và cách làm trên của Agribank chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, các NHTMCP trên địa bàn cũng thực hiện kết nối với DN trên cơ sở rà soát lại khách hàng của mình. Đơn cử như DongA Bank, đến nay đã ký tín dụng kết nối với DN được khoảng 401 tỷ đồng nhờ lãnh đạo NH này chủ động thông báo nội dung Chương trình cho tất cả các chi nhánh trong hệ thống trên toàn quốc. Theo đó, DongA Bank có khả năng tham gia Chương trình kết nối NH - DN trên phạm vi rộng hơn, theo kế hoạch của NHNN chi nhánh các tỉnh thành đang nhân rộng mô hình liên kết này như: Hà Nội, Phú Yên, Bình Phước, Bắc Giang…

Sacombank được đánh giá là đơn vị chủ lực trong chương trình kết nối NH – DN từ giai đoạn đầu ở TP. Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Minh Tâm, Phó Tổng giám đốc Sacombank chia sẻ, từ đầu năm 2014 đến nay, NH đã đưa ra 13 gói tín dụng ưu đãi trị giá 21.750 tỷ đồng và 110 triệu USD giúp các tổ chức, cá nhân phục hồi sản xuất kinh doanh. Trong đó, riêng vốn cho chương trình kết nối NH – DN ở 13 quận, huyện TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Khánh Hòa đã chiếm hơn 1.124 tỷ đồng.

  Địa phương phải tích cực hơn  

Thực tế, điều kiện sản xuất kinh doanh mỗi địa phương lại có những khó khăn riêng, đa dạng, nên nhiều NHTMCP khi nhân rộng mô hình liên kết này ra ngoài địa bàn TP. Hồ Chí Minh thì gặp phải sự lúng túng. Lãnh đạo một NHTMCP cho rằng, Chương trình này ở TP. Hồ Chí Minh thành công là do có những yếu tố tích cực hỗ trợ: NH chủ động tiếp cận với chính quyền, liên kết với địa phương thẩm định nhu cầu vốn DN. Chính quyền địa phương tích cực chọn DN tốt bảo lãnh cho ngân hàng. Thủ tục hành chính, pháp lý, xử lý tài sản thế chấp… giúp NH nhanh chóng giải ngân cũng như thu hồi vốn.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, Phó Tổng giám đốc DongA Bank cho rằng, các buổi lễ ký kết đều được truyền thông rộng rãi đã tăng tính công khai minh bạch trong quan hệ NH – DN. Qua đó, tạo được sự tin tưởng giữa người đi vay và cho vay. Để tiếp nối thành công ở những tỉnh thành khác, cần vai trò tích cực từ phía chính quyền cơ sở. &Ldquo;Phòng kinh tế các quận, huyện phải giúp ngân hàng trong việc thu thập danh sách DN có nhu cầu vay vốn, giới thiệu cho NH, cung cấp thông tin về họ thì mới có thể rút ngắn thời gian cho vay vốn”, bà Vân bày tỏ mong muốn.

Nhiều TCTD thực hiện kết nối đã có bài bản, quy trình  kế toán thuế trọn gói  ổn định ở địa bàn TP. Hồ Chí Minh, nhưng khi mở rộng ra địa phương khác lại gặp phải nhiều bỡ ngỡ thủ tục hành chính. Sau quá trình triển khai Chương trình kết nối NH – DN, các NHTMCP có thế mạnh ở TP. Hồ Chí Minh đang vươn ra địa bàn cả nước để tìm kiếm những cơ hội phát triển tín dụng và dịch vụ NH.

 

  BIDV ký thỏa thuận hợp tác với VTVcab  

Theo thỏa thuận được ký kết, BIDV cam kết tài trợ, thu xếp vốn tín dụng ngắn, trung dài hạn cho VTVcab và các công ty con với tỷ trọng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh chính và thực hiện các dự án.
BIDV cũng sẽ áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay linh hoạt và mức lãi suất ưu đãi, cạnh tranh cho các khoản vay của VTVcab và các công ty con.
Đặc biệt, BIDV còn cung cấp các dịch vụ ngân hàng tài chính hiện đại cho VTVcab đảm bảo hiệu quả, phù hợp, tiết kiệm như dịch vụ tài khoản và tiền gửi, dịch vụ tài chính, thanh toán, dịch vụ ngân hàng khác… Chương trình hợp tác được triển khai nhằm tăng cường quan hệ giữa hai đơn vị, hướng tới mục tiêu trở thành đối tác toàn diện, lâu dài, bền vững.
Thông qua việc phát triển các dự án trong lĩnh vực truyền hình trả tiền của VTVcab và các công ty con, BIDV sẽ mở rộng cung ứng tín dụng và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đồng thời, thông qua hoạt động của BIDV, VTVcab sẽ có điều kiện được tiếp cận với nguồn tài chính đảm bảo để thực hiện các hoạt động sản xuất - kinh doanh trong tương lai.

 

 

Mặt hàng vàng SJC tăng Vàng SJC tăng chậm hơn thế giới, thay đổi bị thu hẹp

Doanh nghiệp kinh doanh vàng tại thị trường thành thị Hồ Chí Minh chuẩn bị mở cửa bán hàng (Ảnh: TTXVN)

Dịch vụ báo cáo tài chính

Tại thời khắc 9 giờ 00 phút, chiều  mua vào của thương hiệu SJC tại thị trường thị thành Hồ Chí Minh đang niêm yết ở mức 36,70 triệu đồng/lượng, còn chiều bán ra là 36,82 triệu đồng/lượng.

Na ná, tại các công ty khác như DOJI Hà Nội, Vietinbank Gold, Techcombank Gold, Sacombank... Giá mua và bán vàng SJC cũng chao đảo từ 36,73-36,80 triệu đồng/lượng.

Như vậy, so với chốt phiên cuối tuần trước là 36,77 triệu đồng/lượng, giá vàng SJC đầu giờ sáng nay tăng từ 30.000-50.000 đồng/lượng.

Đây cũng là phiên tăng thứ  4 liên tục của thương hiệu này. Trong tuần trước, nhờ lực đẩy từ thế giới, giá vàng SJC tăng 430.000 đồng/lượng, chốt phiên cuối tuần trước ở mức 36,77 triệu đồng/lượng.Công ty dịch vụ kế toán thuế

Chênh lệch giữa hai chiều mua và bán của vàng SJC tại Thành phố Chí Minh giữ ở mức 120.000 đồng/lượng, cao hơn khoảng 50.000 đồng/lượng so với các doanh nghiệp khác như DOJI, Techcombank và Vietinbank...

Cùng thời khắc trên, tại công ty Bảo Tín Minh Châu, giá vàng Rồng Thăng Long được niêm yết từ 33,17-33,62 triệu đồng/lượng. Trong tuần trước, thương hiệu này cũng tăng 520.000 đồng/lượng.

Trong khi đó, giá vàng thế giới trong 5 phiên gần đây tăng tổng cộng 31 USD/ounce (ứng tăng 660.000 đồng/lượng) đã thu hẹp khoảng chênh lệch so với thương hiệu SJC trong nước xuống còn 4 triệu đồng/lượng (giảm 200.000 đồng/lượng so với đầu tuần trước).Nhận làm báo cáo thuế

Trên thị trường ngoại tệ, giá bán USD tại các ngân hàng thương mại lớn sáng nay đều niêm yết gần sát mức trần cho phép, còn chiều mua vào động dao từ 21.170-21.195 đồng/USD.

Cụ thể, nhà băng Vietcombank mua vào là 21.195 đồng/USD còn bán ra là 21.245 đồng/USD; Vietinbank niêm yết từ 21.180-21.245 đồng/USD còn BIDV mua vào là 21.135 đồng/USD và bán ra là 21.245 đồng/USD./.

Vàng xuống dốc trượt giảm trước thềm cuộc họp ECB

 

Vàng giảm sâu phiên thứ 4 tiếp tục, giao dịch sôi động

Thị trường vàng thế giới đầu giờ sáng ngày hôm nay (5/6) vẫn ở dưới đáy thấp nhất 4 tháng do khả năng ECB giảm lãi suất và lo ngại về báo cáo việc làm tại Mỹ. Trong nước, giá vàng giao đầu giờ sáng ngày hôm nay duy trì đà giảm nhẹ 4 phiên liên tiếp. Khoảng cách giữa hai thị trường đang là 4,1 triệu đồng/lượng.

 

 

Vàng được trưng bày tại một cửa hàng tại quận kim hoàn ở New York City

Vào, lúc 8h30  dịch vụ dọn dẹp sổ sách  sáng nay, giá vàng SJC tại Hà Nội được Công ty CP SJC Hà Nội niêm yết giao dịch ở mức 35,87 – 35,99 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 250.000 đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 230.000 đồng/lượng chiều bán ra so với cùng thời điểm phiên hôm qua.

Cùng giờ, tại thị trường TP. HCM, giá vàng SJC cũng được Công ty VBĐQ Sài Gòn niêm yết giao dịch mua bán ở mức 35,87- 36,00 triệu đồng /lượng, giảm 250.000 đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 230.000 đồng/lượng chiều bán ra. Giá vàng SJC được Công ty CP VBĐQ SJC Đà Nẵng niêm yết giao dịch ở mức 35,87 – 35,99 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), giảm 250.000 đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 230.000 đồng/lượng chiều bán ra so với cùng thời điểm phiên hôm qua.

Lúc 9h00, giá vàng SJC được Công ty Vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu niêm yết ở mức 35,93 - 35,99 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 230.000đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 210.000 đồng/lượng ở chiều bán ra so với cùng thời điểm phiên hôm qua. Giá Vàng miếng và Nhẫn tròn trơn Vàng Rồng Thăng Long mua bán ở mức 32,62 – 33,07 triệu đồng/lượng.

Đóng cửa phiên 4/6 tại New York, giá vàng giao ngay chốt phiên ở mức 1.243,45 USD/ounce, giảm so với 1.244,20 USD/ounce vào cuối phiên trước đó.

Tại công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC, giá vàng giảm 100.000 đồng/lượng ngay ở giờ mở cửa. Sau đó, giá vàng chưa có thêm sự điều chỉnh nào nữa. Vào lúc 8h40, giá vàng SJC Hà Nội giao dịch ở mức mua  Dịch vụ kế toán tại hà nội  vào: 36,26 triệu đồng/lượng, bán ra 36,38 triệu đồng/lượng. Vàng SJC Hồ Chí Minh: Mua vào 36,26 triệu đồng/lượng; bán ra 36,36 triệu đồng/lượng.

Tại công ty vàng bạc đá quý Doji, giá vàng niêm yết ở mức cao hơn một chút. Giá vàng SJC Hà Nội giao dịch ở mức: Mua vào 36,28 triệu đồng/lượng, bán ra 36,34 triệu đồng/lượng. Vàng SJC TP.HCM mua vào 36,28 triệu đồng/lượng, bán ra 36,34 triệu đồng/lượng.

Nâng đỡ cho giá vàng khỏi bị giảm sâu phiên này là việc Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust đã mua thêm vào 1,8 tấn vàng, nâng lượng dự trữ của quỹ lên 787,08 tấn vào hôm thứ Ba (3/6).

Như vậy, so với chốt phiên hôm qua (4/6), giá vàng SJC tại hai thành phố lớn qua niêm yết của Tập đoàn VBĐQ DOJI điều chỉnh giảm mỗi chiều 70.000 đồng/lượng và 50.000 đồng/lượng.

Còn  kế toán thuế trọn gói giá rẻ  tại một số doanh nghiệp vàng khác tại Hà Nội cho thấy, giá vàng SJC giao dịch ở 35,88 triệu đồng/lượng - 35,96 triệu đồng/lượng, giảm tương đương 100.000 đồng/lượng và 80.000 đồng/lượng mỗi chiều.

Theo các nhà phân tích, động thái mua vào của SPDR Gold Trust giúp hỗ trợ cho tâm lý thị trường trong ngắn hạn, song dù vậy, lượng vàng mà quỹ nắm giữ hiện vẫn đang ở gần mức thấp nhất trong 5 năm qua.

Có thể thấy, việc thực hiện quy định mới của một số tiệm vàng được thực hiện theo cách ghi đúng tuổi vàng nhưng tính giá như cũ, giá ăn gian tuổi. Theo một chuyên gia vàng nữ trang lâu năm tính toán, việc tính giá vàng 9T85 thành 9T9, người tiêu dùng đã bị “móc túi” 160.000 đồng/chỉ.

Theo quy định của Thông tư 22 về giới hạn sai số trong sản phẩm vàng trang sức mỹ nghệ, vàng có hàm lượng từ 99,9% trở lên là 0,1%, vàng hợp kim có hàm lượng từ 80% đến dưới 90% là 0,2%, vàng hợp kim có hàm lượng dưới 80% là 0,3%. Với quy định này, hầu hết các sản phẩm nữ trang, mỹ nghệ nếu được kiểm tra là vi phạm.

 

 

 

HDBank ưu đãi cho vay đối với DN FDI

Theo đó, các DN FDI đáp ứng đầy đủ các điều kiện của HDBank sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn vốn để sữa chữa, XD mới nhà xưởng, máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu…với mức vay 70% chi phí theo phương án khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng hạn mức của chương trình: 500 tỷ đồng.
Thời hạn vay tối đa: không quá 18 tháng (theo khế ước nhận nợ); ân hạn 3 tháng- 6 tháng. Loại tiền cho vay: VND hoặc USD.

 


  HDBank dánh khoản cho vay ưu đãi lớn đối với doanh nghiệp FDI  

Đối với đa số doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thời hạn giao hàng gấp gáp, đơn hàng lớn luôn là thách thức, khi nguồn vốn còn hạn hẹp. Vì vậy, tiếp cận tín dụng lúc nào cũng là vấn đề quan trọng. Để đáp ứng nhu cầu này, các ngân hàng luôn tìm cách triển khai nhiều chương trình cấp vốn với lãi suất ưu đãi, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, dịch vụ thuận tiện.


HDBank sẽ áp dụng mức lãi suất ưu đãi  kế toán thuế trọn gói giá rẻ  hấp dẫn trong 6 tháng đầu tiên: 12%/năm đối với loại tiền vay VND và 5% đối với loại tiền vay USD. Các tháng tiếp theo, lãi suất áp dụng theo quy định hiện hành của HDBank. Thời gian giải quyết hồ sơ nhanh chóng; thủ tục đơn giản.
Từ 1/6 - 30/9/2014, Agribank triển khai chương trình cho vay ưu đãi với mức tín dụng 10.000 tỷ đồng cho vay xuất, nhập khẩu với lãi suất từ 6-8%. Đối tượng cho vay ưu đãi lãi suất là khách hàng xuất nhập khẩu vay vốn để thu mua, chế biến, xuất nhập khẩu hàng hóa nông sản, thực phẩm; nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn; sản  dịch vụ kế toán trọn gói giá rẻ  xuất, chế biến xuất khẩu các hàng hóa khác. Thời gian ưu đãi lãi suất cho vay được tính từ ngày cho vay đến khi trả nợ, nhưng không quá thời hạn cho vay trên hợp đồng tín dụng và tối đa không quá 6 tháng.


Trên tiềm lực tài chính vững mạnh, HDBank thường xuyên triển khai nhiều chương trình tín dụng ưu đãi lớn nhằm tiếp sức cho các đối tượng khách hàng. Với các doanh nghiệp FDI, nhiều năm qua, HDBank đã luôn đồng hành cùng các nhà đầu tư với nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi. Trong đó, với chương trình ưu đãi vốn vay cho các doanh nghiệp FDI lần này, HDBank đang góp phần cùng các cấp chính quyền củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

 

  (HNM) - Không giống như những năm trước, 5 tháng đầu năm 2014 đã qua đi nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng vẫn ì ạch, với mức tăng chỉ đạt 1,31% so với cuối năm 2013.  

Để đạt kế hoạch 12-14% cho cả năm 2014, các ngân hàng đang ráo riết "chạy đua" với việc đưa ra hàng loạt chương trình cho vay ưu đãi…

Không chỉ chú trọng vào những DN lớn, để hỗ trợ tối đa nhu cầu vốn cho cá nhân, hộ kinh doanh và  dịch vụ dọn dẹp sổ sách  các DN vừa và nhỏ, Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) đã triển khai đồng loạt các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi. Cụ thể, lãi suất 8,5%/năm được áp dụng cho khách hàng cá nhân vay tiêu dùng và DN. Đối với tiểu thương, nếu vay 30 triệu đồng, mỗi ngày người vay chỉ phải trả khoảng 6.000 đồng tiền lãi. Riêng DN đầu tư tài sản cố định, bổ sung vốn vay ngắn hạn có thể được hưởng lãi suất 0,49-0,69%/tháng. Ngoài chương trình cho vay ưu đãi, MHB còn triển khai nhiều gói sản phẩm tài chính trọn gói dành cho các khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh, DN. Trong khi đó, Ngân hàng TMCP Kỹ thương (Techcombank) đã đưa ra những giải pháp giúp DN phụ trợ quản lý tài chính chuyên nghiệp, nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian, nhân lực. Với gói sản phẩm này, DN được hưởng các ưu đãi hấp dẫn về giá và phí khi sử dụng các dịch vụ tài chính.

 

 

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More